dayhocvan.blogspot.com

dayhocvan.blogspot.com

dayhocvan.blogspot.com
dayhocvan.blogspot.com

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

Lựa chọn hệ thống câu hỏi trong giờ giảng văn để phát huy tư duy sáng tạo của học sinh


Trong bộ môn Ngữ văn (cách gọi cũ là Văn - tiếng Việt), giờ giảng văn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Giờ giảng văn giúp HS cảm thụ và phân tích được tác phẩm văn chương, rèn luyện năng lực thẩm mỹ và năng lực tư duy. Năng lực thẩm mỹ còn tuỳ thuộc vào yếu tố năng khiếu của HS, còn năng lực tư duy là một yêu cầu có tính phổ biến trong dạy học văn.
Trong bộ môn Ngữ văn (cách gọi cũ là Văn - tiếng Việt), giờ giảng văn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Giờ giảng văn giúp HS cảm thụ và phân tích được tác phẩm văn chương, rèn luyện năng lực thẩm mỹ và năng lực tư duy. Năng lực thẩm mỹ còn tuỳ thuộc vào yếu tố năng khiếu của HS, còn năng lực tư duy là một yêu cầu có tính phổ biến trong dạy học văn. Tác phẩm văn chương là một bức tranh phản ánh đầy đủ và sinh động hiện thực cuộc sống xung quanh chúng ta. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng về tác phẩm văn học mà mình được tiếp xúc. Học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm văn chương, được học trong nhà trường cũng vậy. Vì thế, trong giờ giảng văn cần phát huy hết năng lực tư duy, khả năng tìm tòi phát hiện cảm nhận theo những suy nghĩ riêng của HS. Như vậy, tác phẩm văn học sẽ trở thành đối tượng của thầy trò trong quá trình dạy học. Hiện nay phương pháp giảng dạy tích cực theo quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm” đã được đưa vào ứng dụng. Trong hoạt động dạy học nói chung, trong giờ giảng văn nói riêng với phương pháp này thì phải có sự tác động qua lại giữa giáo viên và HS. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập thì người giáo viên có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động của trò. Trò phải là chủ thể tự giác tích cực trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Để giờ học tác phẩm văn chương trở nên sinh động, vai trò của học trò trong giờ học được khẳng định và mối liên hệ qua lại thường xuyên giữa thầy và trò được duy trì thì không thể thiếu hệ thống câu hỏi. Lý luận dạy học đã có nhiều công trình nghiên cứu được áp dụng trong quá trình giảng dạy văn học đem lại hiệu quả cao. Trong các công trình đó các nhà nghiên cứu cũng đều chú trọng đến phương pháp gợi mở mà trong đó câu hỏi được sử dụng như một liệu pháp chính để phát huy tư duy của HS. Trong quá trình giảng dạy, tuỳ vào điều kiện thực tế, tuỳ cách sáng tạo của mỗi giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi và tiến hành thực hiên cách hỏi nhằm định hướng và tổ chức điều khiển hoạt động của học sinh trong giờ giảng văn. Nhưng việc sử dụng câu hỏi như thế nào trong giờ giảng văn để đem lại hiệu quả cao đó là điều mà giáo viên dạy văn cần trăn trở và suy nghĩ. Qua tìm hiểu thực tế giảng dạy ở nhà trường và một số trường THPT trong tỉnh, tôi thấy rằng cách đặt câu hỏi trong giờ dạy tác phẩm văn chương vẫn còn tồn tại những hạn chế. Giáo viên quá ham kiến thức nên không còn thời gian đặt câu hỏi, hoặc nếu có thì lượng câu hỏi đưa ra ít ỏi không tương ứng với phần thuyết trình. Ngược lại có trường hợp giáo viên nêu câu hỏi nhiều nhưng chưa tập trung hoặc chưa có hệ thống, câu hỏi còn thiếu sự phát huy sáng tạo của học sinh. Từ thực tế trên, tôi mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm trong việc lựa chọn hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau: I. Yêu cầu của các loại câu hỏi: - Câu hỏi phải gợi mở để tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích thích sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng bên trong của HS. Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu HS trả lời có hoặc không. Ví dụ: Khi giảng tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, chúng ta không nên đặt những câu hỏi như: Đọc xong tác phẩm, em thấy Chí Phèo có phải là một tên lưu manh không? mà chúng ta phải đặt những câu hỏi giúp HS tìm những chi tiết cho thấy quá trình lưu manh hoá của Chí như thế nào? Vì sao Chí biến mình thành một kẻ lưu manh như vậy?… - Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là tác động đến trực giác của HS. Ở dạng câu hỏi này GV phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao. Ví dụ: Cách sử dụng các từ láy ở 2 câu thơ sau trong bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu gợi tả được điều gì? Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều Ở câu hỏi này GV giúp HS phân tích để thấy được cái vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên có đường nét dịu dàng uyển chuyển. Các từ láy trong hai câu thơ làm nổi bật cảnh vật như lảo đảo, buổi chiều đang ở trong ánh nắng thay màu, mùa thu rung động nhẹ nhàng trong nắng, trong gió. Để có được bức tranh thiên nhiên như vậy nhà thơ của chúng ta cũng phải đắm say trong vẻ đẹp của chiều thu. - Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát. Cần có những câu hỏi nhỏ gợi ý, tạo điều kiện để HS nhận ra yêu cầu và trả lời được. VD: Khi dạy bài “Giải đi sớm” của Hồ Chí Minh - bài I, chúng ta có thể đặt câu hỏi: “hành trình chuyển lao của Bác được phản ánh như thế nào qua bài thơ?” Để hiểu rõ được câu hỏi này GV phải gợi mở cho HS tìm hiểu về: thời gian, không gian chuyển lao; người bị giải lao đi trong tâm thế như thế nào…từ đó đi đến kết luận tuy hành trình gặp muôn vàn gian khó nhưng người bị giải lao không còn là hình ảnh của một tù nhân trong một cuộc chuyển lao mà là hình ảnh của một chiến sĩ kiên cường lên đường vì nghĩa lớn. - Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài giảng, tránh đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt. - Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp với đối tượng và phân loại đối tượng. Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích thích, vừa tác động đến nhận thức, tư duy của HS. Việc đưa ra câu hỏi phải căn cứ vào nội dung bài học, vào đối tượng HS, vào điều kiện khách quan… để có cách đặt câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi thích hợp. II. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ giảng văn. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của HS, kết hợp phương pháp dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau: 1. Câu hỏi tái hiện GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu hỏi này giúp HS tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản ảnh…Các câu hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình tiếp nhận ở HS. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa mới học. Ví dụ: - Giảng bài “Vợ nhặt” của Kim Lân (văn 12 tập 1), GV có thể hỏi: Bức tranh nạn đói năm Ất dậu 1945 được nhà văn miêu tả qua các chi tiết đặc sắc nào trong tác phẩm? Hãy tái hiện lại bức tranh đó và cho biết cảm nghĩ của bản thân? - Sau khi HS điểm qua một vài chi tiết như: Cả xóm ngụ cư tối sầm vì đói rét, bóng người xanh xám, người chết như ngã rạ, thây nằm còng queo…GV hướng dẫn HS phân tích cái hay của các chi tiết trên và cho các em liên hệ một số tác phẩm khác để tái hiện lại nạn đói năm 1945. 2.Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ. Loại câu hỏi này nhằm mục đích làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp HS dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi GV biểu diễn phương tiện trực quan (băng ghi hình, phim đèn chiếu, phim điện ảnh) Ví dụ: - Khi giảng bài Thơ duyên của Xuân Diệu (sách văn học 11 tập 1) GV cho HS giải thích tựa đề của bài thơ ( người và cảnh giao hoà với nhau một cách tự nhiên và thật đẹp - thơ để làm duyên, để bắc cầu đến tình yêu) - Khi dạy bài Chí Phèo của Nam Cao, ở phần quá trình thức tỉnh lương tâm của Chí có đoạn đề cập đến nhân vật Thị Nở, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho HS tìm hiểu về nhân vật này thông qua bức tranh tư liệu lấy từ bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy như sau: Em có nhận xét gì về ngoại hình của nhân vật này? 3. Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện) Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học văn. Sự cảm thụ tác phẩm của HS phải qua con đường của nhận thức. Để HS nắm bắt chính xác tác phẩm, chúng ta phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các em. GV tổ chức việc trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, thông qua đó HS nắm được tri thức mới. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một vấn đề xác định, buộc HS phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học.Trật tự logic của các câu hỏi hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết. Ở đây GV là người tổ chức sự tìm tòi còn HS là người tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại HS có được niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối đoạn đàm thoại, GV cần biết vận dụng các ý kiến của HS để kết luận vấn đề đặt ra, dĩ nhiên là có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, HS càng hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. Để HS tìm tòi được kiến thức , GV có thể đưa ra nhiều dạng câu hỏi khác nhau: 3.1. Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề và tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Trong nhiều trường hợp khi đã xác định được vấn đề, nhờ câu hỏi (tuỳ thuộc vấn đề đơn giản hay phức tạp) mà GV tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái chưa biết, cuốn hút sự quan tâm của HS và tiên lượng trước khả năng giải quyết vấn đề của các em. Ở loại câu hỏi này có thể có nhiều tình huống khác nhau 3.1.1. Đối với tình huống lựa chọn: Là tình huống xuất hiện khi có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề buộc ta phải lựa chọn cách giải quyết hợp lý nhất, tối ưu nhất. Ví dụ: Khi giảng bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (Văn 11 tập 1), GV có thể hỏi: Có người cho rằng đây là bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên thôn Vĩ? Có người cho rằng bài thơ là tình yêu thầm kín giữa Hàn Mặc tử với Hoàng Cúc? Có người lại cho rằng thôn Vĩ là cái cớ để nhà thơ bộc lộ tâm trạng của mình? Em tán thành ý kiến nào? Vì sao? Câu hỏi này đặt ra khi phân tích khổ cuối của bài thơ. Để giúp HS giải quyết được câu hỏi trên, GV có thể gợi mở giúp cho HS thấy được tín hiệu quan trọng nhất của bài thơ nằm ở hai chữ “ở đây” trong câu thơ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Từ tín hiệu đó, tìm ra hệ thống ký hiệu - kết cấu: trong này - ngoài kia. Hàn Mặc tử đã đứng ở thế giới bị cách ly, ở “lãnh cung” mờ mờ nhân ảnh để nhìn ra thế giới bên ngoài và khát khao trở lại trong niềm vui tuyệt vọng. Thi sĩ tìm đến vườn đẹp, trăng đẹp, người đẹp. Không tìm được vẻ đẹp này thì lại gắng gượng tìm vẻ đẹp khác…cứ thế thành một hành trình tâm trạng: kiếm tìm - thất vọng - rồi lại tìm kiếm… 3.1.2. Đối với tình huống mâu thuẫn: Là tình huống không phù hợp giữa hình thức và nội dung, giữa nội dung này và nội dung khác hoặc giữa hình thức với hình thức trong một chỉnh thể tác phẩm văn học. Rộng hơn có thể có cả mâu thuẫn trong cách đánh giá và tiếp nhận tác phẩm văn học đó. Ví dụ: Khi giảng bài Thương vợ của Tú Xương GV có thể đặt tình huống mâu thuẫn như sau: Ấn tượng 2 câu kết của bài thơ là một tiếng chửi, theo mạch văn thì đó là tiếng chửi của ai? Trên thực tế thì có đúng không? Ý nghĩa của tiếng chửi này là gì? Như chúng ta biết, theo mạch văn thì đây là lời bà Tú. Bà Tú chửi, cũng là trách “thói đời”, con người bạc bẽo, lừa lọc, ông chồng “hờ hững” vô tình. Có thể đấy là chút tâm sự riêng thầm kín của người phụ nữ trải qua nhiều gian truân, vất vả lúc bực bội trách cứ người này, người khác. Song ta biết bà vốn là người đoan trang khiêm nhường nên tiếng chửi kia không phải là lời trực tiếp của bà mà chính là một cách Tú Xương bông đùa, trào lộng để tự phê phán mình, tự trách mình từng làm khổ vợ, từng “hờ hững”, vô tình, vô tâm với vợ. Thấu hiểu được nỗi lòng của vợ như vậy mới thấy được ông thương vợ biết nhường nào. 3.1.3. Đối với tình huống bất ngờ: Là tình huống được tạo ra bằng các sự kiện bất ngờ hoặc bất bình thường. Bản thân tình huống này đã chứa đựng yếu tố lý thú và gây hưng phấn cho HS. Ví dụ: Khi giảng bài Thề non nước của Tản Đà, phân tích 2 câu cuối của bài, GV có thể đặt tình huống như sau: Tại sao tác giả không dùng từ “trăm năm” thay cho “Nghìn năm” trong câu thơ “Nghìn năm giao ước kết đôi” để đúng với lời thề giữa hai người với nhau, với giới hạn “trăm năm trong cõi người ta” (như phân tích trên là lời thề, lời tâm tình giữa non và nước)? Từ đó GV hướng dẫn HS phân tích để thấy được đủ cơ sở để hiểu đây chính là lời thề với nước non và suy ra lòng yêu nước, yêu Tổ quốc một cách kín đáo của tác giả. 3.1.4. Đối với tình huống phản bác: Tình huống này nảy sinh khi phải tranh luận, đấu tranh với những đánh giá, những nhận định hoặc quan điểm sai lệch. Ví dụ: Khi giảng bài Thề non nước của Tản Đà, nhận xét về cách ngắt nhịp của câu “Non cao tuổi vẫn chưa già” GV có thể đặt tình huống: có người cho rằng câu thơ ngắt theo nhịp 2/4 và giải thích non tuy đã cao nhưng tuổi vẫn chưa già, ý kiến em thế nào? Từ đó cho HS thảo luận và hướng HS đi đến kết luận nhận xét như vậy là sai mà phải ngắt nhịp theo 3/3 (mặc dù tuổi đã cao - chờ đợi đến héo mòn – nhưng tâm hồn, tình tri kỷ, nỗi lòng non nhớ nước vẫn như xưa …) 3.1.5. Đối với tình huống giả định: Ví dụ: Khi giảng bài Thương vợ của Tú Xương GV có thể đặt tình huống giả định như sau: Em thử dùng các từ gần nghĩa với từ mom sông để thay thế từ này trong câu thơ “Quanh năm buôn bán ở mom sông” và so sánh tác dụng của nó với khi dùng từ mom sông trong câu thơ trên? (chẳng hạn một trong các từ ven sông, bờ sông, bên sông). 3.2. Câu hỏi cần được phân tích, nhận xét, đánh giá: Sau khi nêu ra các câu hỏi tái hiện, chúng ta phải đặt những câu hỏi để tìm ra những lý do: Tại sao tác giả lại xây dựng, sử dụng những hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật đó? Ý nghĩa của vấn đề? Loại câu hỏi này giúp HS biết phân tích, đánh giá và khái quát những vấn đề quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ví dụ: - Khi giảng bài Chí Phèo của Nam cao (Văn 11 tập 1), GV có thể hỏi: Tại sao Nam Cao đã không mở đầu tác phẩm của mình bằng sự kiện Chí ra đời ở cái lò gạch cũ mà mở đầu bằng hình ảnh của sự tha hoá - Chí uống rượu say vừa đi vừa chửi? Hãy phân tích tiếng chửi đó. Đối với loại câu hỏi này GV hướng dẫn HS tìm hiểu đối tượng của tiếng chửi. Đối tượng của tiếng chửi được thu hẹp dần: từ chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại và cuối cùng là chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn. Phân tích dấu hiệu văn bản, ta nhận thấy sau mỗi câu diễn tả tiếng chửi hướng tới một đối tượng Nam Cao đều viết những lời bình phẩm. Những lời bình phẩm đó thể hiện ý thức, thái độ của dân làng Vũ Đại và của cả Chí Phèo. Dù viết dưới hình thức nào thì tất cả các câu đều có ngữ điệu khẳng định một sự thật không hề bàn cãi. Nhưng duy nhất sau lần miêu tả Chí Phèo chửi “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn” thì Nam Cao dùng câu văn đầy chất nghi vấn “Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này?”, “Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo?”. Cả hai câu trên đều thể hiện ý thức, sự băn khoăn pha lẫn tức giận của dân làng Vũ Đại cũng như của Chí về vấn đề: đứa chết mẹ nào đẻ ra Chí. Khi hắn còn là đứa trẻ tím ngắt trong cái váy đụp thì người ta chỉ hỏi “ai là người đẻ ra đứa trẻ ấy?”. Còn khi hắn uống rượu, vừa đi vừa chửi thì câu hỏi của dân làng Vũ Đại sẽ là “đứa chết mẹ nào đẻ ra thằng quỹ dữ, thằng khốn nạn đó…?” Lúc này, vấn đề đặt ra không chỉ là “ai đã sinh thành” mà còn là “ai đã nuôi dưỡng nên một tính cách như thế”. Kết cấu đảo lộn trật tự thời gian (xét trên toàn bộ tác phẩm) và kết cấu thu hẹp dần đối tượng trong tiếng chửi cùng với việc thay đổi ngữ điệu bình phẩm sau mỗi đối tượng chửi đã dẫn dụ người đọc vào một sự truy tìm, lý giải nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện một gã Chí Phèo tha hoá. Rõ ràng đây chính là tín hiệu chỉ đường vào tác phẩm của nhà văn. - Khi giảng bài “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu (Văn 12 tập 1), GV có thể hỏi: Trong khung cảnh đêm chiến tranh ác liệt việc tác giả tập trung đặc tả hình ảnh cô Nguyệt đẹp cả về hình thức lẫn tâm hồn co ý nghĩa gì? 3.3.Câu hỏi yêu cầu có sự so sánh đối chiếu; Sự so sánh đối chiếu là một hình thức của thao tác phân tích trong tư duy. Qua việc so sánh đối chiếu HS có thể nhận ra những nét độc đáo, những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm. Các loại câu hỏi đưa ra có thể là để so sánh các hình ảnh chi tiết trong tác phẩm hoặc với các tác phẩm khác. Ví dụ: - Khi dạy bài Chí Phèo của Nam cao (văn 11 tập 1),GV có thể hỏi: Em hãy so sánh hình tượng nhân vật Chí Phèo với hình tượng nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố (văn 9 tập 2), từ đó chỉ ra những phát hiện độc đáo của Nam Cao khi miêu tả hình tượng của người nông dân trước cách mạng? 3.4. Câu hỏi ứng dụng và liên hệ. Loại câu hỏi này giúp HS chuyển nhận từ nhận thức về tác phẩm ở bên ngoài vào trong. Để trả lời câu hỏi này, HS phải tự liên hệ với thực tế và bản thân để tìm ra hướng giải quyết thích hợp theo sự cảm thụ của mình. Các loại câu hỏi này có thể là: Cho biết tác dụng từ việc đọc tác phẩm đến tình cảm thái độ nhận thức của em? Theo em, tác phẩm này có tác dụng như thế nào đối với đời sống? Tác phẩm có đóng góp gì đối với nền văn học?... Ví dụ: - Giảng bài “Chí Phèo” của Nam Cao (Văn 11-tập 1), GV có thể hỏi: Thái độ của em đối với nhân vật Chí Phèo như thế nào? (hoặc ấn tượng của em về nhân vật Chí Phèo). Nam Cao đã có đóng góp gì nổi bật về nghệ thuật kể chuyện và xây dựng nhân vật? III. Những kinh nghiệm trong việc lựa chọn hệ thống câu hỏi trong giờ giảng văn để phát huy tư duy sáng tạo của học sinh. 1. Đối với giáo viên: - Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để đặt câu hỏi hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy móc, tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để rơi vào tình trạng dạy học hỏi đáp máy mọc đơn điệu. - Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh. - Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà. 2.Đối với học sinh: - Khâu soạn bài: HS đọc tác phẩm, chuẩn bị bài theo câu hỏi mà giáo viên đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi và nội dung, yêu cầu mỗi câu hỏi, GV phân công học sinh chuẩn bị theo tổ, theo nhóm, hoặc theo cá nhân. - Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ HS bằng điểm số khi các em tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa thầy và trò để phát huy tư duy sáng tạo của HS. Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho HS cảm thụ sâu sắc giá trị của đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập của HS là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy nhiên, để biến những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức khoa học cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và phải có thêm niềm tin vào HS. T.H


Không có nhận xét nào: